Khi lỗi thuộc về những vì sao
Phan_4
“Khoan kết luận vội! Khi nào anh có thể gặp em đây?”
“Dĩ nhiên là sau khi anh đọc xong Nỗi đau tột cùng rồi.” Tôi thích đẩy đưa thêm một chút.
“Thế thì anh nên bỏ máy xuống và tiếp tục đọc.”
“Anh nên làm thế,” tôi bảo. Và anh tắt máy ngay mà không nói thêm một lời.
Trò tán tỉnh này quả thật mới mẻ nhưng tôi thích chơi trò này.
Sáng hôm sau tôi có lớp Thơ Mỹ Thế kỷ Hai mươi tại trường MCC. Bà giảng viên bộ môn đứng tuổi cứ thao thao bất tuyệt về một bài giảng dài chín mươi phút về Sylvia Plath mà không một lần trích thơ của Sylvia Plath.
Khi tôi ra khỏi lớp, Mẹ đã chờ sẵn ở lề đường trước khu tôi học.
“Bộ Mẹ ở đây đợi con suốt buổi học à?” tôi hỏi khi bà vội vã vòng ra sau lưng để giúp tôi chuyển giá đỡ và bình ô-xy của tôi vào trong xe.
“Không, Mẹ có đi lấy đồ giặt ủi và ghé bưu điện.”
“Và sau đó?”
“Mẹ đã đọc một cuốn sách trong lúc chờ đợi,” bà đáp.
“Và con là người cần tận hưởng cuộc sống.” Tôi cười, bà cũng cố gắng mỉm cười theo, nụ cười pha chút ngượng ngập, tôi quyết định chuyển đề tài. “Mẹ có muốn đi xem phim không?”
“Có chứ. Con muốn xem phim gì?”
“Mẹ con mình cứ đến rạp và có phim nào sắp chiếu thì xem phim đó.” Mẹ đóng cửa xe cho tôi và đi vòng qua bên cửa lái chính. Chúng tôi lái xe đến nhà hát Castleton và xem một bộ phim 3D về loài chuột biết nói. Bộ phim thực sự khá buồn cười.
Khi tôi xem xong phim và ra khỏi rạp, tôi thấy có bốn tin nhắn từ Augustus.
Hãy nói bản truyện em đưa anh bị thiếu mất hai mươi trang cuối hoặc viện một lý do gì khác.
Hazel Grace, hãy nói với anh rằng anh chưa đọc đến kết truyện đi!
TRỜI ƠI LIỆU HỌ CÓ KẾT HÔN KHÔNG ÔI TRỜI TRUYỆN GÌ THẾ NÀY
Anh đoán là Anna chết và truyện đơn giản kết thúc ngay đó? TÀN NHẪN. Hãy gọi cho anh ngay nhé. Hy vọng mọi chuyện vẫn ổn.
Ngay khi về đến nhà, tôi đi thẳng ra sau vườn và đến ngồi trên chiếc ghế lưới hóng mát đang hoen gỉ và gọi cho anh ấy. Hôm nay trời vần vũ mây, kiểu thời tiết đặc trưng của bang Indiana, không khí đặc quánh như sắp đóng hộp ta vậy. Nổi bật trên mảnh sân nhỏ sau nhà là bộ đánh đu thời thơ bé của tôi, giờ nhìn ướt nhèm nhẹp thật thảm thương.
Augustus bắt máy khi chuông reo hồi thứ ba. “Hazel Grace,” anh chào.
“Chào mừng anh đến với sự tra tấn ngọt ngào khi đọc Nỗi đau—” Tôi chợt ngừng lại khi nghe tiếng sụt sịt rõ to ở đầu dây bên kia. “Anh có sao không?” Tôi vội hỏi.
“Anh khỏe,” Augustus trả lời. “Tuy nhiên anh đang ở bên cạnh anh Isaac, anh ấy đang bị suy sụp tinh thần trầm trọng.” Tiếng khóc rền rĩ hơn. Giống như tiếng rú thảm thiết trước khi chết của một con thú bị thương. Gus chuyển sự chú ý sang Isaac. “Này, này thằng quỷ, sự có mặt của Hazel Hội Tương Trợ liệu có làm mày thấy khá hơn không, hay còn tồi tệ hơn? Isaac. Nghe. Tao. Nè.” Sau một phút, Gus nói với tôi. “Em có thể gặp tụi anh ở nhà anh không? Khoảng hai mươi phút nữa.”
“Được,” tôi đáp và tắt máy.
Nếu có thể lái xe trên một đường thẳng thì thật ra chỉ mất độ năm phút để đi từ nhà tôi đến nhà anh Augustus, nhưng chúng ta không thể lái xe trên một đường thẳng vì Công viên Holliday nằm ngay chính giữa hai nhà.
Mặc dù đó là sự bất tiện về mặt địa lý nhưng tôi thực sự thích Công viên Holliday. Hồi còn bé, tôi thường bơi lội tung tăng trên Sông Trắng với Ba. Tuyệt nhất là khi ông ném tôi lên không trung, kiểu như tung tôi ra khỏi tay, và tôi sẽ dang hai tay ra như thể đang bay và ông sẽ đưa tay đón lấy tôi. Chợt cả hai cha con thấy là cha không thể bắt được con mà cũng không có ai đỡ tôi ở bên dưới. Cảm giác sợ hãi đó khiến hai cha con thất kinh hồn vía. Thế rồi cả người tôi rơi tõm xuống sông. Và khi tôi ngoi lên mặt nước mà không bị bề hấn gì, sóng lại đẩy tôi về phía Ba. Rồi tôi lại nằn nì: Nữa đi, Ba ơi, nữa đi.
Tôi rẽ sang đường vào nhà Augustus, đậu xe cạnh một chiếc Toyota cũ màu đen mà tôi đoán là của anh Isaac. Xóc lại bình ô-xy phía sau lưng, tôi bước đến gõ cửa. Ba của Gus ra mở cửa.
“Hazel Được Rồi,” ông lên tiếng. “Rất vui được gặp lại cháu.”
“Anh Augustus kêu cháu ghé qua.”
“Ừ, nó và Isaac đang ở dưới tầng hầm.” Đúng lúc đó có tiếng khóc vọng lên từ dưới hầm. “Hẳn đó là Isaac,” ba của Gus nói và khẽ lắc đầu. “Bác Cindy đã phải lái xe ra ngoài, cái tiếng khóc đó…” ông bỏ lửng câu. “Mà thôi, cháu xuống hầm đi. Có cần bác giúp đỡ cháu cái, ơ, cái bình này không?” Ông hỏi.
“Dạ không cần đâu bác, cháu tự xoay xở được. Cảm ơn bác nhé, bác Waters.”
“Cứ gọi bác là Mark,” ông bảo.
Tôi hơi sờ sợ khi đi xuống hầm. Nghe người ta khóc than rên rỉ không phải là trò giải trí yêu thích của tôi. Nhưng tôi vẫn bước xuống.
“Hazel Grace,” Augustus nói khi anh nghe tiếng bước chân của tôi. “Isaac, Hazel của Hội Tương Trợ đang xuống kìa. Hazel, anh cảnh báo em trước là anh Isaac đang trong giai đoạn khủng hoảng tinh thần đó nha.”
Augustus và Isaac đang ngồi ngả lưng trên ghế lười có hình dạng chữ L và chơi game, mắt nhìn chăm chăm lên màn hình ti-vi khổng lồ. Màn hình được chia hai, phần bên trái của Isaac, và bên phải của Augustus. Họ là những người lính chiến đấu trong một thành phố hiện đại đang bị giội bom. Tôi nhận ra cảnh tượng giống trong cuốn Cái giá của Bình minh. Khi bước tới, tôi vẫn chưa thấy có gì bất thường: chỉ là hai anh chàng đang ngồi trong quầng sáng chiếu ra từ chiếc ti-vi khổng lồ, đóng vai chiến sĩ bắn giết kẻ thù.
Chỉ đến khi đứng song song với họ, tôi mới nhìn thấy mặt của anh Isaac. Nước mắt ràn rụa cứ chảy thành dòng qua hai gò má đỏ ửng của anh, khuôn mặt anh rúm ró đầy đau khổ. Anh vẫn nhìn chằm chằm vào màn hình, thậm chí không buồn liếc nhìn lên tôi, và rống lên, trong khi tay vẫn bấm lia lịa vào bộ điều khiển của mình. “Em khỏe không, Hazel?” Augustus hỏi.
“Tôi khỏe,” tôi đáp. “Còn anh, Isaac?” Không một câu trả lời. Thậm chí chẳng có dấu hiệu nhỏ nào cho thấy anh biết đến sự hiện diện của tôi. Chỉ có những giọt nước mắt ngắn dài chảy ướt chiếc áo thun đen của anh.
Augustus thoáng liếc nhìn ra khỏi màn hình. “Hôm nay em xinh thật,” anh khen. Tôi đang mặc cái đầm chỉ-vừa-chấm-gối mà tôi có từ hồi xưa lơ xưa lắc. “Con gái nghĩ rằng họ chỉ được phép diện đầm vào những dịp trang trọng. Nhưng anh thích tuýp phụ nữ kiểu như, ồ, tôi sắp đi gặp một anh chàng đang suy sụp tinh thần cùng một anh chàng chẳng dây mơ rễ má gì và nhìn đây, tôi sẽ mặc đầm đến đó.”
“Tuy nhiên,” tôi nói, “anh Isaac chẳng buồn liếc nhìn tôi. Chắc tại quá yêu Monica, tôi đoán vậy,” và nhận ngay kết quả là một tiếng nấc tức tưởi.
“Chủ đề nhạy cảm đấy!” Augustus nhắc. “Isaac, tao không biết mày thấy không nhưng tao có linh cảm mơ hồ rằng tụi mình đang bị đánh chọc sườn.” Và sau đó quay sang nói với tôi, “Isaac và Monica không còn gặp nhau nữa, nhưng anh Isaac không muốn nói về cô nàng đó. Anh ấy chỉ muốn khóc và chơi game Chống phiến loạn 2 trong Cái giá của Bình minh thôi.”
“Được thôi,” tôi đáp.
“Isaac, tao thấy ngày càng lo về vị trí chiến đấu của tụi mình. Nếu mày đồng ý thì cứ chạy đến trạm điện, tao sẽ yểm trợ cho.” Anh Isaac chạy về phía một tòa nhà không rõ là nhà gì trong khi Augustus vừa lia một khẩu súng máy bắn liên thanh dữ dội vừa chạy theo phía sau.
“Dù sao,” Augustus nói với tôi, “cứ nói chuyện với anh ấy đi, không sao đâu. Nếu bậc cao nhân con gái như em có lời khuyên hay ho nào thì xin chỉ giáo.”
“Tôi thấy phản ứng đó của ảnh cũng hợp tình hợp lý mà,” tôi nói trong tràng súng đùng đoàng của anh Isaac, giết chết tươi một tên vừa ló đầu ra khỏi phía sau một chiếc xe tải nhỏ đã cháy rụi.
Augustus vẫn nhìn chăm chú vào màn hình, gật đầu. “Nỗi đau cần được cảm nhận,” anh nói, đó là một câu trong cuốn Nỗi đau tột cùng. “Mày có chắc không còn thằng nào đằng sau tụi mình chứ?” anh hỏi Isaac. Một lúc sau, đạn lửa bắt đầu rít lên phía trên đầu họ. “Ôi, chết tiệt, Isaac,” Augustus thốt lên. “Tao không có ý chỉ trích mày trong thời điểm mày yếu đuối nhất. Nhưng mày để tụi mình bị đánh chọc sườn rồi. Bây giờ thì không còn gì chắn giữa đám khủng bố và trường học.” Nhân vật trong game của Isaac chạy ngoắt ngoéo trong một con hẻm hẹp về phía ngọn lửa.
“Anh có thể đi qua cầu rồi vòng lại,” tôi nhắc, một chiến thuật tôi biết nhờ đọc Cái giá của Bình minh.
Augustus thở dài. “Tiếc là do chiến thuật của vị đồng đội đang tuyệt vọng của anh có vấn đề mà cây cầu đã bị phe nổi dậy kiểm soát rồi.”
“Tao á?” Isaac thì thầm. “Tao hả?! Mày là đứa đề nghị chạy đến núp trong cái trạm điện chết bầm này mà.”
Gus quay sang từ màn hình trong tích tắc và nhếch mép cười. “Tao biết mày có thể nói chuyện mà!” Anh nói. “Nào, giờ chúng ta hãy tiến lên cứu giúp mấy em học sinh nào.”
Họ cùng nhau chạy dọc con hẻm, vừa nổ súng vừa tìm chỗ ẩn nấp cho đến khi gặp ngôi trường chỉ duy nhất một phòng học. Họ thu mình phía sau một bức tường trên phố và bắn tỉa từng kẻ thù một.
“Tại sao quân nổi dậy muốn vào trường?” Tôi hỏi.
“Chúng muốn bắt học sinh làm con tin,” Augustus trả lời. Bờ vai anh che khuất bộ điều khiển, tay không ngừng bấm nút, cả cánh tay căng lên lộ rõ gân máu. Isaac nghiêng người về phía màn hình, các ngón tay thanh mảnh nhảy múa trên bộ điều khiển của anh. “Chết này! Chết này! Chết này!” Augustus phấn khích. Làn sóng quân khủng bố vẫn tiếp tục túa ra, và họ giết sạch bọn chúng. Hai anh ngắm bắn chuẩn xác đến đáng kinh ngạc, lẽ dĩ nhiên phải thế vì cả hai sợ sẽ bắn nhầm vào trường học.
“Lựu đạn! Lựu đạn!” Augustus hét lên thất thanh khi có một vật bay véo thành hình vòng cung xẹt ngang màn hình, lăn về phía cổng trường rồi va vào cửa.
Isaac buông bộ điều khiển trong sự thất vọng não nề. “Nếu bọn chúng không bắt được con tin, chúng sẽ giết mấy em học sinh rồi vu khống cho chúng ta.”
“Yểm trợ cho tao!” Augustus nói khi anh nhảy ra từ phía sau bức tường và chạy về phía cổng trường. Isaac lúng túng chộp lấy bộ điều khiển và bắt đầu bắn lia lịa trong khi đạn của kẻ thù trút như mưa xuống Augustus, anh đã bị bắn trúng một phát rồi đến hai phát nhưng vẫn chạy. Augustus hét vang: “CHÚNG BÂY KHÔNG GIẾT ĐƯỢC MAX MAYHEM ĐÂU!” Và với một loạt lượt bấm cuối cùng, anh lao mình lên quả lựu đạn. Nó phát nổ dưới người anh. Cơ thể anh bị nổ tan, các mảnh xác vụn bắn lên tung tóe như một mạch nước phun trào. Rồi cả màn hình chuyển sang màu đỏ. Một giọng nói khàn khàn cất lên, “NHIỆM VỤ THẤT BẠI.” Nhưng dường như Augustus nghĩ khác, bởi lẽ anh mỉm cười trước những tàn tích của mình trên màn hình. Anh thò tay vào túi, lấy ra một điếu thuốc, và nhét nó vào giữa hai hàm răng của mình, thong thả nói, “Bọn trẻ đã được cứu!”
“Tạm thời thôi!” Tôi chỉnh lời anh.
“Mọi sự cứu rỗi đều mang tính tạm thời,” Augustus đáp lại. “Anh kéo dài được một phút cho bọn trẻ. Có lẽ đó là phút giúp chúng sống thêm một giờ, và một giờ đó giúp chúng sống thêm một năm. Sẽ không ai kéo dài thời khắc mãi mãi được cho bọn trẻ. Hazel Grace à. Nhưng mạng sống của anh kéo dài thêm một phút cho chúng. Và điều đó không hẳn là vô nghĩa.”
“Oaaa, thôi được rồi,” tôi nói. “Chúng ta chỉ đang nói về trò chơi điện tử.”
Anh nhún vai, như thể anh tin rằng trò chơi có thể biến thành sự thực. Isaac lại bắt đầu khóc lóc. Augustus hất đầu về phía anh Isaac. “Chơi lại nhiệm vụ này không, chiến hữu?”
Isaac lắc đầu. Anh nhoài người qua Augustus, nhìn tôi và trầm giọng bảo, “Rốt cuộc thì chị Monica không muốn tiếp tục nữa.”
“Chị ấy không muốn chia tay một người bị mù,” tôi nói. Anh gục gặc đầu, nước mắt không còn là từng giọt nữa mà giờ rơi như một cái máy gõ nhịp – đều đặn và liên tục không ngừng.
“Chị ấy nói là không thể đối mặt,” anh rền rĩ. “Anh sắp mất thị lực và chị Monica không đối mặt được với chuyện đó.”
Tôi suy nghĩ về từ đối mặt, tất cả những điều không thể đối mặt cuối cùng vẫn được giải quyết. “Em rất tiếc,” tôi nói.
Anh quệt tay áo, lau khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Phía sau gọng kính, đôi mắt của anh Isaac dường như lớn hơn, lấn át hết mọi chi tiết khác trên khuôn mặt. Cặp mắt quái gở ấy lồi ra, nhìn chòng chọc vào tôi – một con mắt thật, một con mắt giả. “Thật không thể chấp nhận được,” anh nói với tôi. “Hoàn toàn không chấp nhận được.”
“Thật ra, công bằng mà nói,” tôi giải thích, “có thể chị ấy không thể đối mặt được. Anh cũng vậy, nhưng chị ấy không nhất thiết phải đối mặt với chuyện này. Còn anh thì bắt buộc phải vậy.”
“Hôm nay anh không ngừng nói ‘luôn luôn’ với chị ấy, ‘luôn luôn luôn luôn luôn luôn’, còn chị chỉ lo biện bạch này nọ mà không hề đáp lại mật mã. Cứ như thể anh đã ra đi rồi, em hiểu không? ‘Luôn luôn’ là một lời hứa! Làm sao chị ấy có thể phá vỡ lời hứa kia chứ?”
“Đôi khi người ta không ý thức được những lời họ hứa khi họ đang hứa,” tôi nói.
Isaac bắn một tia nhìn qua tôi, “Phải, cứ cho là vậy đi. Nhưng ta phải giữ lời hứa chứ. Đó mới là tình yêu. Tình yêu là giữ lời hứa dù trong hoàn cảnh nào. Em không tin vào tình yêu đích thực ư?”
Tôi không trả lời. Tôi không có câu trả lời. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu tình yêu đích thực có tồn tại thì lời anh Isaac là một định nghĩa hay về tình yêu.
“Chậc, anh thì tin vào tình yêu đích thực,” Isaac nói. “Và anh yêu chị. Chị đã hứa. Chị ấy đã hứa sẽ luôn luôn yêu anh.” Anh đứng lên đi về phía tôi. Tôi cũng đẩy người đứng dậy, đinh ninh là anh muốn ôm tôi hay gì đó, nhưng anh chỉ đơn giản quay nhìn xung quanh, giống như anh đang cũng không nhớ vì sao lúc đầu mình lại đứng dậy. Và rồi cả Augustus và tôi đều thấy cơn thịnh nộ dồn lên mặt anh.
“Isaac,” Gus kêu.
“Cái gì?”
“Mày trông hơi… Xin lỗi nếu câu này mang hai nghĩa nha mày, nhưng tao thấy ánh mắt mày có vẻ ức chế.”
Đột nhiên Isaac đá chiếc ghế chơi game của mình, khiến nó ngã nhào về phía giường của Gus. “Bộc phát đi mày!” Augustus hào hứng. Isaac đuổi theo chiếc ghế và đá nó một lần nữa. “Đúng rồi!” Augustus khuyến khích. “Hãy đá nó đi, đá bay cái ghế đi!” Anh Isaac đá thêm mấy phát, cho đến khi nó lăn trở lại giường của Gus, và sau đó anh nắm lấy một chiếc gối và bắt đầu đập ầm ầm vào khoảng tường trống giữa chiếc giường và kệ trưng cúp phía trên.
Augustus nhìn qua tôi, điếu thuốc lá vẫn còn trên miệng anh, và khẽ mỉm cười. “Anh không ngừng nghĩ về cuốn truyện đó.”
“Tôi biết mà.”
“Tác giả chưa bao giờ bật mí những gì xảy ra với các nhân vật khác sao?”
“Phải,” tôi đáp lời anh. Anh Isaac vẫn đang hành hạ các bức tường bằng gối. “Ông đã chuyển đến Amsterdam, khiến tôi nghĩ rằng có thể ông đang viết phần tiếp theo về Chú Tulip Hà Lan. Nhưng ông không công bố thêm gì và cũng chưa bao giờ trả lời phỏng vấn. Ông dường như không lên mạng. Tôi đã viết hàng loạt thư cho ông hỏi về những chuyện xảy ra với tất cả mọi người, nhưng ông không bao giờ trả lời. Cho nên… ừm.” Tôi ngừng nói vì dường như Augustus không lắng nghe. Thay vào đó, anh đang liếc mắt nhìn Isaac.
“Chờ anh chút,” anh thì thầm với tôi. Nói đoạn anh bước tới chỗ Isaac và nắm lấy vai anh ấy. “Thằng quỷ, gối vô hại. Mày thử cái gì có thể bể được coi!”
Isaac chộp lấy chiếc cúp bóng rổ từ kệ và giữ nó trên đầu như thể chờ anh cho phép. “Ném đi!” Augustus hô. “Ném!” Chiếc cúp đập chát xuống sàn nhà, cánh tay bằng nhựa của chàng cầu thủ bóng rổ long ra nhưng vẫn nắm chặt quả bóng. Isaac dẫm lên chiếc cúp. “Ừ!” Augustus nói. “Đạp bể đi!”
Rồi quay lại nói với tôi, “Anh đã cố tìm cách nói với ba rằng thật ra anh ghét chơi bóng rổ. Và anh nghĩ rằng chúng ta vừa tìm được một cách.” Các chiếc cúp lần lượt bị lôi xuống. Anh Isaac vùa la hét vừa dẫm đạp lên chúng, trong khi Augustus và tôi đứng cách một quãng, chứng kiến sự điên cuồng của tình yêu tan vỡ. Những mảnh vỡ của các cầu thủ bóng rổ đáng thương, sứt sẹo nằm vương vãi khắp nền thảm: đây là một bàn tay bị vỡ đang ôm bóng, kia là đôi chân gãy rụng đang nhảy lên lưng chừng. Isaac liên tục tấn công đám cúp, nhảy thình thịch lên chúng bằng cả hai chân, la hét, thở dốc, vã mồ hôi. Cho đến khi anh ngồi sụp trên đống đổ nát của những chiếc cúp gãy vỡ lởm chởm.
Augustus bước về phía anh và nhìn xuống hỏi, “Thấy đỡ hơn chưa mày?”
“Chưa,” Isaac lẩm bẩm, lồng ngực phập phồng.
“Đó chính là nỗi đau,” Augustus thốt lên, và sau đó quay qua nhìn tôi. “Nỗi đau cần được cảm nhận.”
Chương 5
Tôi đã không liên lạc với Augustus trong khoảng một tuần. Lần sau cùng tôi gọi điện thoại cho anh là vào Buổi Tối Đập Phá Cúp, theo lệ thường thì đến lượt anh gọi cho tôi. Nhưng anh chẳng gọi. Và tôi cũng không phải kiểu con gái suốt ngày ôm khư khư điện thoại trong bàn tay ướt đẫm mồ hôi, mắt nhìn chăm chăm vào đèn báo hiệu có cuộc gọi đến trong khi diện chiếc Đầm Vàng Đặc Biệt, kiên nhẫn chờ chàng trai trong mộng – người luôn sống xứng đáng với ‘thanh danh’ của chàng – sẽ gọi điện cho mình vào một ngày đẹp trời nào đó. Thay vì vậy, tôi tiếp tục thói quen sinh hoạt thường ngày của mình: một buổi chiều tôi hẹn đi cà phê với Kaitlyn và bạn trai của nhỏ (trông dễ thương thật nhưng không có ‘chất Augustinô’); mỗi ngày tôi dùng đủ liều Phalanxifor theo chỉ định; tôi đi học vào ba buổi sáng trong tuần tạo MCC; và mỗi đêm tôi đều ăn tối cùng Ba Mẹ.
Vào tối chủ nhật, nhà tôi ăn pizza với ớt chuông và bông cải xanh. Khi cả nhà đang quây quần bên chiếc bàn tròn trong bếp thì nhạc chuông điện thoại của tôi bắt đầu réo vang. Nhưng tôi không được phép bắt máy vì ở nhà có một quy định nghiêm ngặt là không-nghe-điện-thoại-trong-lúc-ăn.
Tôi ngồi nhấm nháp một chút trong khi Ba Mẹ nói về trận động đất vừa xảy ra ở Papua New Guinea. Ngày xưa, hai người gặp nhau tại Peace Corps ở Papua New Guinea. Nên khi có bắt cứ chuyện gì xảy ra, thậm chí là tin xấu, họ bỗng không còn là những người lớn đã ổn định cuộc sống gia đình nữa mà như đột nhiên quay trở lại với thời thanh niên của mình, trẻ trung, tràn đầy lý tưởng, sống tự lập và gặp nhiều gian truân. Và Ba Mẹ phấn khích đến độ chẳng buồn để ý là tôi đang ăn nhanh hơn thường ngày, không ngừng chuyển thức ăn trên đĩa vào miệng với tốc độ tên lửa khiến tôi gần như nghẹn thở. Dĩ nhiên tôi cũng lo lắng nhỡ đâu lại bị tràn dịch màng phổi lần nữa. Tôi cố xua tan ý nghĩ này. Theo lịch, tôi sẽ chụp cắt lớp PET trong vài tuần nữa. Nếu có chuyện chẳng lành thì tôi sẽ sớm biết thôi. Từ giờ đến đó lo lắng cũng chẳng ích gì.
Nhưng tôi vẫn lo lắng. Tôi yêu cuộc sống này và tôi không muốn từ bỏ nó sớm. Tuy nhiên, lo lắng cũng là tác dụng phụ của việc chờ chết.
Cuối cùng cũng ăn xong. Tôi hớn hở thông báo, “Con ăn xong rồi!” trong khi Ba và Mẹ vẫn say sưa thảo luận về ưu – khuyết của cơ sở hạ tầng ở Guinea. Tôi chộp lấy chiếc ví đặt trên quầy bếp, rút điện thoại ra và kiểm tra các cuộc gọi nhỡ vừa rồi. Là Augustus Warters.
Tôi bước ra cửa sau. Trời chạng vạng tối và tôi có thể thấy chiếc đu. Tôi nghĩ đến việc ra đó ngồi, vừa đong đưa vừa tán chuyện với anh, nhưng khoảng cách dường như khá xa đối với cái bụng đang óc ách của tôi.
Thay vào đó, tôi nằm bệt xuống bãi cỏ bên cạnh chiếc ghế hóng mát, ngước nhìn chòm sao Thợ săn, chòm sao duy nhất tôi có thể nhận diện, và gọi cho anh.
“Hazel Grace,” anh chào.
“Chào,” tôi nói. “Anh khỏe không?”
“Khỏe như vâm,” anh đáp. “Anh đã muốn gọi cho em từng phút một nhưng anh ráng chờ đến khi suy nghĩ mạch lạc hơn đối với truyện Nỗi đau tột cùng.” (Anh dùng từ mạch lạc. Anh ấy thực sự nói thế, cái anh chàng đó.)
“Và?” Tôi hỏi.
“Anh nghĩ rằng nó như… Đọc nó, anh cứ có cảm giác giống như, giống như…”
“Giống như gì?” Tôi hỏi vẻ trêu chọc.
“Giống như một món quà á?” Anh ướm lời như dò xét. “Giống như em đã trao cho anh một cái gì đó quan trọng.”
“Ồ,” tôi khẽ thốt lên.
“Xin lỗi, nghe có vẻ khách sáo quá.”
“Không, anh không cần xin lỗi đâu.”
“Nhưng nó thiếu đoạn kết.”
“Ừ!” Tôi đồng tình.
“Thật là một sự tra tấn. Anh có thể đoán được là cô bé đã chết hay bị gì đó.”
“Ừ, tôi cũng đoán vậy,” tôi nói.
“Ừ, okay, thôi được. Nhưng có một thỏa thuận bất thành văn giữa tác giả và người đọc và anh nghĩ rằng không viết đoạn kết cho truyện cũng là vi phạm một phần thỏa thuận đó.”
“Tôi không biết,” tôi đáp, trong lòng thấy muốn bênh vực cho Peter Van Houten. Nói một cách nào đó thì phần kết là một trong những lý do khiến tôi thích cuốn sách này. Nó miêu tả chân thực cái chết. Ta lăn ra chết ở giữa chừng xuân, ngay cả chính giữa một câu. Nhưng tôi cũng — Chúa ơi, tôi cũng thật sự muốn biết chuyện gì xảy ra sau đó đối với tất cả nhân vật khác. Đó là những gì tôi hỏi ông ấy trong thư của mình. Nhưng ông ấy, hây da, ông không bao giờ hồi âm.
“Đúng rồi, em nói ông là một người sống ẩn dật phải không?”
“Dạ phải.”
“Không thể tìm được tung tích.”
“Dạ phải.”
“Hoàn toàn không thể liên lạc,” Augustus nói tiếp.
“Đáng tiếc là đúng vậy đó,” tôi xác nhận.
“‘Thưa anh Waters,’” giọng anh thủng thẳng. “‘Tôi viết thư này để cảm ơn về bức email của anh đã gửi thông qua cô Vliegenthart vào ngày sáu tháng Tư, từ nước Mỹ xa xôi tới mức có thể nói khoảng cách địa lý đã được xóa nhòa trong thời đại số hóa tiên tiến của chúng ta.’”
“Augustus, anh đang đọc cái quái gì thế?”
“Ông ấy có một trợ lý,” Augustus giải thích. “Lidewij Vliegenthart. Anh tìm ra chị này và đã gửi email cho chị. Chị chuyển email cho ông và ông trả lời thông qua tài khoản email của chị ấy.”
“Được rồi, được rồi. Anh mau đọc tiếp đi.”
“Thư phúc đáp của tôi được viết tay bằng bút mực trên giấy theo truyền thống vẻ vang của tổ tiên chúng ta và sau đó được cô Vliegenthart chuyển thành một loạt các ký tự 1 và 0 chạy ngoằn ngoèo trong một mạng lưới tẻ nhạt, mà gần đây đã mê hoặc được loài người chúng ta. Thế nên tôi thành thật xin lỗi cho bất kỳ lỗi chính tả hay thiếu sót nào có thể xảy ra.’”
“‘Với nhiều thú vui chơi giải trí náo nhiệt sẵn sàng phục vụ các thanh niên cô cậu của thế hệ anh, tôi thật vô vàn cảm kích trước bất cứ người nào ở bất cứ nơi đâu đã dành ra vài giờ hiếm hoi để đọc cuốn sách hèn mọn của tôi. Nhưng tôi đặc biệt mang ơn anh, thưa anh, không chỉ vì những lời ca tụng tốt đẹp của anh về cuốn Nỗi đau tột cùng mà còn vì anh đã nhín chút thời giờ để cho tôi biết rằng cuốn sách đó của tôi, ở đây tôi xin trích nguyên văn lời anh, “có ý nghĩa to lớn” với anh.’”
“‘Nhận xét này, tuy nhiên, khiến tôi tự hỏi: Ý anh là gì khi dùng cụm từ có ý nghĩa? Với cuộc đấu tranh sinh tồn mà kết cục sẽ là cửa tử dành cho tất cả chúng ta, liệu tính phù du thoáng qua của ý nghĩa sống mà nghệ thuật đem lại cho chúng ta có giá trị không? Hay sống chỉ mang giá trị đơn thuần là từng ngày trôi qua sao cho thoải mái nhất? Câu chuyện nên phát triển theo chiều hướng nào đây, anh Augustus? Một hồi chuông cảnh tỉnh? Một lệnh tổng động viên? Một liều thuốc giảm đau? Tất nhiên, như tất cả mọi câu hỏi chất vấn khác trên vũ trụ này, thắc mắc này rõ ràng đưa chúng ta đến câu hỏi sống kiếp người có ý nghĩa gì và phải chăng – xin mượn lời của bọn choai choai mười sáu tuổi với ngổn ngang tâm sự lo lắng cho thế giới hỗn độn này, những tâm sự mà chắc chắn khi nghe anh sẽ cười vào mũi chúng – cuộc sống này có ý nghĩa.’”
“‘Tôi e rằng không, anh bạn của tôi. Và tôi không khuyến khích anh cật vấn thêm về văn phong viết lách của tôi. Nhưng để tôi trả lời thẳng thắn câu hỏi của anh: Không, tôi đã không viết thêm gì khác, cũng chẳng định viết nữa. Tôi không thấy việc tiếp tục chia sẻ suy nghĩ của mình với các bạn độc giả sẽ mang lại lợi ích cho họ hoặc cho tôi. Cảm ơn anh một lần nữa về bức email với những lời khen tặng hào phóng ấy.’”
“‘Trân trọng kính chào, Peter Van Houten, thông qua Lidewij Vliegenthart.’”
“Oaaa,” tôi thốt lên. “Anh không bịa đấy chứ?”
“Hazel Grace, liệu anh có thể, với trí tuệ kém cỏi của mình, bịa ra một lá thư từ Peter Van Houten với mấy cụm từ bay bướm như ‘thời đại số hóa tiên tiến của chúng ta’ hay không?”
“Anh không thể đâu,” tôi đồng ý. “Vậy tôi có thể nào… có thể xin địa chỉ email được không?”
“Dĩ nhiên là được rồi,” Augustus nói, cứ như thể đó không phải là món quà ý nghĩa nhất mà tôi từng nhận được.
Tôi mày mò suốt hai giờ để viết một email cho Peter Van Houten. Dường như tôi càng viết, thư càng ẹ hơn, nhưng tôi quá phấn khích đến độ không thể ngăn mình ngừng viết được.
Kính thưa ông Peter Van Houten (Nhờ chị Lidewij Vliegenthart chuyển giúp),
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian